“Nếu bạn chỉ tập trung vào việc chạy nhanh ở các bài chạy từng đoạn ngắn thì bạn sẽ cải thiện được tốc độ và thành tích ở các giải đua 5K sẽ rất tốt nhưng bạn chỉ là runner chạy nhanh và ngắn, còn nếu bạn chỉ tập trung chạy chậm trong những buổi chạy dài thì bạn sẽ xây dựng được sức bền và hệ ưa khí (aerobic base) nhưng bạn chỉ là runner chạy dài và chậm.”

Ông huấn luyện viên trại chạy bộ nơi tôi tham gia luyện tập hàng tuần vẫn thường xuyên nhắc nhở như thế, phương pháp của ông rất đơn giản: trong tuần có hai buổi chạy tốc độ, cuối tuần có bài chạy dài trên 15km ở tốc độ vừa chạy vừa đàm thoại được, những ngày còn lại thì mọi người tự do chạy các cự ly trung bình ở pace thả lỏng. Khi tụ tập hai ngày trong tuần với cả nhóm, chúng tôi tập những bài chạy anarobic (kỵ khí) khá căng thẳng.

Tập chạy nhanh giúp các sợi cơ co bóp nhanh (fast-twitch muscle) quen làm việc và chạy dài và chậm là lúc cơ co bóp chậm (slow-twitch muscle) được phát huy để giúp cơ thể quen chịu đựng với việc chạy kéo dài nhiều giờ. Khi ra race thì hai yếu tố này kết hợp lại, giúp chúng ta chạy nhanh và dài. Trên lý thuyết là vậy, nhưng đem áp dụng vào thực tế thì không phải ai cũng thành công, cá nhân tôi nghiệm ra một điều là nếu muốn chạy dài và nhanh (yếu tố bắt buộc để chạy tốt ở các giải đua marathon) thì bạn cần phải có những bài chạy chất lượng trong những buổi chạy dài, điều đó có nghĩa là xây dựng nền tảng ưa ký không chưa đủ mà chúng ta cần phải kết hợp chạy tốc độ trong các buổi tập chạy dài chứ không đợi đến lúc ra race. Nếu bạn tham khảo các bài chạy của tiến sĩ Jack Daniels qua cái gọi là Daniels’ Running Formula (công thức chạy bộ của Daniels) thì sẽ thấy ông nhấn mạnh các bài chạy chất lượng, thậm chí ở các buổi chạy dài. Những bài chạy chất lượng này – mà ông gọi là Q1 và Q2 – không xảy ra thường xuyên, Jack Daniels vẫn khuyên runner nên chạy dài và chậm nhưng theo chu kỳ thì cách tuần lại có những bài chạy chất lượng rất căng!

Thêm một điều nữa mà tôi nghiệm được là bài tập chất lượng trong công thức của Daniels rất khó thực hiện, đặc biệt là phải chạy interval, có nghĩa là pace nhanh hơn pace marathon, trong một buổi chạy dài, và tập một mình thì lại càng khó hơn. Cách tốt nhất là nhờ một runner chạy nhanh hơn mình dắt pace trong những buổi chạy dài chất lượng này.

Tôi may mắn làm quen được với một runner người Mỹ thuộc đẳng cấp ưu tú trong cộng đồng chạy bộ ở địa phương. Tên anh là Jonathan, 42 tuổi, đã nhiều lần chạy ở Boston. Tháng 4 năm nay khi có nhiều runner đạt chuẩn BQ chạy ở Boston chuốc lấy thảm bại vì gặp ngày mưa tuyết bão bùng thì Jonathan lại phá kỷ lục cá nhân của mình ở Boston với thời gian 2:57:42. Jonathan tình nguyện làm pacer cho tôi ở các buổi chạy dài chất lượng Q1 theo công thức Jack Daniels. Bài tập Q1 đòi hỏi tôi phải nhiều lần chạy ở ngưỡng tempo trong buổi chạy dài, nhưng pace này chỉ là chạy thả lỏng đối với Jonathan.

Trong lúc chạy Jonathan luôn huyên thuyên kể chuyện và pha trò để cho tôi quên đi cái cảm giác mệt mỏi, anh cũng ra lệnh cho tôi không được xem đồng hồ đeo tay, anh nói: “Bạn cứ yên tâm chạy theo tớ thì sẽ đúng bài bản!” Ở những mile cuối Jonathan kể cho tôi nghe:

Hãy tưởng tượng chúng ta đang ở km thứ 40 và tiến vào Boston, ngay trước mặt chúng ta là tấm biển Citgo. Chúng ta chuẩn bị leo đồi dọc xa lộ Massachusetts Turnpike. Ngọn đồi này ngắn nhưng không dễ nuốt, nhưng không sao vì ngay sau đó chúng ta lại thả dốc, và công viên Fenway nằm ngay bên tay phải,….”

Tôi đã nghe cũng như đọc rất nhiều về đường đua marathon lâu đời nhất trên thế giới này. Tôi chưa từng trải nghiệm và cũng chưa chạy đủ nhanh để đạt chuẩn BQ, vì vậy tôi phải đọc và nghe các bạn chạy rồi kể lại để đỡ ghiền. Trong vô vàn câu chuyện về Boston Marathon đã đọc qua, tôi thích nhất tường thuật của Danna Herrick, xin dịch lại và chia sẻ với bạn đọc trong khi chờ đợi một giải major marathon sắp diễn ra cuối tuần này.

Florida

Trước khi tôi có thể để tâm trí tập trung trực tiếp vào hình ảnh của Boston, tôi đã có những bước cuối cùng để hoàn thành giai đoạn luyện tập marathon. Nhóm chúng tôi trở về Orlando, Florida, hai tuần trước ngày đua. Chúng tôi đã hoàn thành bài chạy dài cuối cùng (16 dặm) và bài tập tốc độ cuối cùng (3×2 dặm), sau đó là tuần lễ chạy phục hồi. Mileage giảm và nghỉ ngơi gia tăng để hoàn thành mục đích taper. Trong blog cuối cùng của tôi, tôi đã mô tả giai đoạn luyện tập lần này và những khác biệt so với các lần luyện tập marathon trước đây. Trước kia tôi không chắc chắn về việc cơ thể sẽ cảm nhận như thế nào trong tuần cuối cùng của quá trình luyện tập trước ngày đua. Tôi có nói chuyện với Des (Linden) và một trong những huấn luyện viên của tôi, và nhận ra một điều: việc bạn cảm giác như thế nào trong thời gian taper thực sự không quan trọng bởi vì bạn không thể kiểm soát được nó. Bạn không thể thay đổi nó. Điều quan trọng là khi thức dậy vào ngày đua, đặt niềm tin vào việc luyện tập và tin tưởng vào chính mình. Bốn tuần trước khi cuộc đua diễn ra tôi đã không chắc chắn khi đầu gối bên phải như muốn dở chứng. Tôi đã cố gắng kết hợp tự trị liệu trong những tuần tập luyện cuối cùng đó. Khi cuộc đua cuối tuần đến gần, tôi quyết định (đầu gối) không khác gì mối quan hệ của tâm trí và cơ thể trong suốt thời gian taper: bạn nên lo từng ngày một, hãy tuân theo hiệu lệnh của cơ thể, kiểm soát những gì bạn có thể kiểm soát, và tin tưởng rằng mọi thứ sẽ diễn ra đúng như sắp xếp của Thượng Đế.

Ở Boston trước ngày đua

Nhóm của chúng tôi đã đến Boston hai ngày trước cuộc đua và ngay lập tức cảm thấy sự phấn khích của cộng đồng và thành phố: màu xanh và vàng bao phủ khắp khu phố Back Bay của Boston, những chiếc áo khoác danh giá của những runner đầy niềm kiêu hảnh, những dấu hiệu và biểu ngữ đầy khích lệ, nét sơn được kẻ đậm ở vạch finish nằm trên Phố Boylston, và mặt tiền của các cửa hàng được trang trí rực rỡ khắp Quảng trường Copley của Boston. Tôi đã dành trọn ngày Chủ Nhật để tham dự cuộc họp kỹ thuật dành cho vận động viên elite để xem xét hậu cần cuộc đua, đường đua, chất lỏng, di chuyển đến điểm khởi hành, và thủ tục sau race để xét nghiệm có dùng chất kích thích. Tôi đã đổ đầy các chai chất lỏng cá nhân của tôi (các thanh Power Bar – pha loãng trong 6 ounce nước cho mỗi 5k của cuộc đua), sắp xếp lại đồng phục của mình (tên và số bib), và bỏ vào bao các thứ cần thiết cho cuộc đua. Nạp năng lượng những ngày và tuần lễ của cuộc chạy marathon không có gì đặc biệt cả. Tôi gắn bó với những gì tôi đã ăn và uống trong suốt giai đoạn luyện tập (bia đen được bỏ qua và kem giảm xuống đến lượng bình thường trong vòng một tháng trước ngày đua). Tôi thường khao khát nhiều carbohydrate trong cả tuần của cuộc đua và tôi nghiệm ra rằng cơ thể của tôi đang chậm chạp tải carbs và chuẩn bị cho trận chiến. Tôi tin vào việc gắn bó với những gì hoạt động hữu hiệu, không cần biết nó nhàm chán hay nhạt nhẽo. Bữa tối trước cuộc đua của tôi là một chiếc bánh sandwich gà tây, tiếp theo là một loại sữa sô-cô-la và thứ gì đó ngọt để tráng miệng.

Marathon Monday

Đồng hồ báo thức vang lên lúc 5:50 sáng, tôi có dưới một tiếng để ăn bánh sandwich bơ đậu phộng chuối, uống một tách cà phê, căng cơ và lên xe buýt dành cho vận động viên ưu tú trước 6:45 sáng. Nhiệt độ tầm 60 độ F, với dự đoán tăng 3-4 độ từ đầu đến cuối. Gió thổi từ hướng Tây-Tây Bắc, đó là một cơn gió đuôi thuận lợi, và đôi lúc là “cơn gió trên vai trái của bạn” dự đoán sẽ tăng dần trong sáng nay. Các huấn luyện viên của tôi đã từng chạy ở Boston, đủ để biết rằng việc tập luyện dưới thời tiết nóng ở Florida và lạnh ở Michigan là một lợi điểm, phụ thuộc vào thời tiết ở phía Đông Bắc ùa về vào ngày Marathon diễn ra hôm thứ Hai. Tôi cảm thấy không có lo lắng hay sợ hãi về thời tiết vì tôi biết tôi đã từng đối mặt với tất cả mọi thứ trong giai đoạn luyện tập marathon.

Trước 9 giờ sáng, Des, Dot và tôi làm nóng phía sau nhà thờ, cùng với nhóm nữ còn lại. Chúng tôi chạy thả lỏng khoảng một dặm trước khi chuẩn bị đi bộ đến vạch xuất phát. Lúc 9:20 sáng, nhóm top 20 (John Hancock) được gọi để xếp hàng, nhóm còn lại trong đó có tôi được hướng dẫn theo sau. Sự di động bị suy giảm, các vận động viên xe lăn đã bắt đầu tầm nửa giờ trước chúng tôi. Tôi chạy chậm vài bước trước khi quay qua Des ra hiệu bằng một nắm đấm với thông điệp “chiến đẹp!” và sau đó ẩn mình ở đằng sau tốp nữ vài hàng. Về sau tôi biết rằng tầm vóc của tôi đã giúp gia đình và bạn bè thân thiết của tôi bắt được một vài hình ảnh của tôi trên TV, trông tôi quá nghiêm trọng cho một cuộc đua vui vẻ như vậy. Đúng lúc 9:32 giờ sáng, phát súng ra hiệu vang lên và cuộc hành trình của tôi đến Boston trở thành hiện thực.

Kế hoạch race của tôi bao gồm ba phần, mỗi phần được thiết kế nối đuôi nhau. Phần thứ nhất: “thư giãn và chạy” 15 dặm đầu tiên. Đạt tốc độ 6:00/dặm. Đừng quá phấn khích, nhưng cũng đừng ngủ quên. Một nửa đường đua này có rất nhiều đoạn dốc, hãy nhớ rằng mỗi downhill được bù đắp bằng một uphill. Tôi đã đi qua dặm đầu tiên trong 6:05 và dường như quanh quẩn chỉ hơn pace 6:00 với các đoạn split tiếp theo. Tôi không cảm thấy có gì đáng quan ngại, nhưng tôi hơi lo lắng vì mỗi dặm trôi qua tôi đã cộng thêm giây vào pace của mình và còn quá sớm để bắt đầu nghĩ  đến chuyện “tăng tốc.” Nhóm nữ trải ra trong vòng 2 dặm đầu tiên và tôi tập trung vào cơ thể của mình trong khi cảm nhận được 3-4 runner nữ xung quanh tôi. Tôi thấy mình chén được vài runner nữ nhưng vẫn còn quá xa phía sau nhóm trước mặt, và quyết định tiếp tục đi theo tốc độ solo của mình. Từ dặm 4-8 tôi tự nhủ phải chạy thoải mái nhưng cắt giảm 2-3 giây ở mỗi dặm. Giữa dặm 6-7, tôi chén được thêm runner nữ nữa. Thông qua những ngọn đồi trong đường đua này , tôi bắt đầu vượt qua nhiều người trong số những runner khuyết tật và xe lăn. Điều này nhanh chóng thay đổi tâm lý của tôi từ mối quan tâm về tốc độ thành cảm hứng đã có mặt ở đường đua này và đang chạy chung với nhóm chuyên nghiệp nữ. Tôi khuyến khích mỗi vận động viên tôi vượt qua khi họ chạy rất vất vả giữ được bước chân hoặc đẩy được vành xe để tiếp tục tiến lên phía trước trên những ngọn đồi.

Tôi đến thị trấn Natick giữa dặm 7 và 8. Tôi chạy hoàn toàn một mình qua đám đông la hét trên cả hai bên đường và cảm thấy dáng chạy của mình cao hơn và mạnh mẽ hơn một chút. Tôi chộp lấy cốc nước để đổ lên đầu tại mỗi trạm tiếp tế (đặt ở mỗi dặm) để giữ cho cơ thể luôn được mát dưới ánh mặt trời. Tôi chạy ngang qua một nhà thờ lớn với một hàng dài những đứa trẻ, mỗi đứa đứng trên một dàn nhún mini trampolines cổ vũ phía bên phải của tôi, và một ghi chú trước cuộc đua từ một người bạn lóe lên trong đầu tôi – “Tôi hình dung bạn đang bay và giơ tay high-five với đám trẻ con xếp hàng dọc tuyến đường“- Tôi vung tay ra và ngay lập tức nghe thấy tiếng kêu của đám đông gấp đôi khối lượng của nó khi tôi high-five với hàng dài những đứa trẻ con. Đó là lúc tôi nhận ra cộng đồng cổ vũ, những đứa trẻ, những tiếng la hét, vào mối giao tiếp với đám đông đã kích thích đôi chân và con tim của mình. Những đứa trẻ nhắc tôi hãy tận hưởng và hấp thụ cộng đồng này và thành phố này dọc theo cung đường đua, như thể hấp thụ nhiên liệu thích hợp để kết thúc mạnh mẽ cuộc đua.

Tôi tiếp tục chạy một mình ở 4 dặm kế tiếp, giật nhanh chai chất lỏng cá nhân của tôi với bàn tay trái và cầm theo cho đến khi toàn bộ chai hết sạch. Tôi bắt đầu đổ 2 cốc nước lên đầu tôi ở mỗi trạm trợ giúp để tiếp tục làm mát. Với cái bib phía trước cho thấy họ của tôi, những người hâm mộ cổ vũ hét lên và hét lên “Go HERRICK !!” như thể tôi đã thắng được thứ gì đó. Huấn luyện viên của tôi và vợ của anh ta hét lên với tôi khoảng 10 dặm, nói với tôi rằng tôi trông rất thoải mái và đang chạy đúng pace. Tôi bật ngón tay cái lên và mỉm cười để xác nhận tôi cảm thấy thoải mái và tự tin, theo đúng pace. Mile 12 có thể là một phần của toàn bộ sân đua mà tôi cảm thấy tôi có thể nghe thấy tiếng bước chân của tôi, mà không có đám đông làm điếc tai.

Tôi leo một chút dốc nghiêng trước khi nghe những phụ nữ “đường hầm la hét” của trường Wellesley College. Những phụ nữ này trải dài toàn bộ bên phải con đường dọc theo khuôn viên đại học và la hét gần nửa dặm đường. Tôi cảm thấy như tôi đang thử nghiệm cái lý thuyết: tương tác + đám đông = khuếch đại âm lượng và sự phấn khích. Tôi co tay thành một nắm đấm. Một lần nữa và một lần nữa lý thuyết của tôi được chứng minh là đúng. Bất kỳ cường độ hỗ trợ từ đám đông nào cũng cảm thấy như một sự trẻ hóa của năng lượng khi đôi mắt được tập trung và đôi chân tiến về phía trước.

Tôi vượt qua nửa đầu với thời gian khoảng 01:18:40 … cảm thấy khỏe hơn so với ở dặm 0-4 và sẵn sàng để tiếp tục nhích gần gũi hơn với những runner nữ ở phía trước. Miles 13-15 là khá bằng phẳng nhưng đám đông cùng với tiếng ồn dường như giảm hẳn theo từng bước gần hơn đến Boston. Tôi bắt kịp một vài runner nữ trong vòng 2 dặm này và nhận thấy mạnh mẽ hơn ở mỗi thị trấn chạy qua.

Phần 2 của kế hoạch race của tôi: Miles 15-20 “Bật nhạc lên”. Thay đổi địa hình = thay đổi trang phục. Hãy sẵn sàng. Hãy mạnh mẽ. Những ngọn đồi phía trước. Đây là lúc cuộc chơi bắt đầu. Mile 15 bắt đầu với Lower Newton Falls và một vài đoạn xuống dốc qua cộng đồng duyên dáng. Tôi chạy tiếp tuyến khi con đường cong bên phải và thấy một người đàn ông đứng tuổi đứng trong tầm tay trên đường đua. Tôi vươn tay ra để high-five, ông ấy mỉm cười và nói “Yeah! Go get it!” Ông ta đập mạnh tay tôi.

Bệnh viện là một địa danh mang theo một quãng đường dài và đẹp, từ từ xuống dốc từ dặm 16-17. Đám đông tiếp tục tăng dần khi tôi đến gần Trạm Cứu hỏa Newton. Đây là ‘thay đổi trang phục’ trong kế hoạch race của tôi. Ngay nơi đây tôi biết nó không chỉ là chuyện rẽ cua, nó là bước ngoặt trong cuộc đua của tôi. Đây là nơi mà kế hoạch race của tôi nhắc rằng: trò chơi bắt đầu. Tôi mỉm cười, và giống như một buổi biểu diễn khiêu vũ kéo dài 3 giờ, nụ cười của tôi được toát lên từ niềm vui khi biểu diễn. Tôi cảm thấy như có ai đó nâng tôi lên khi tôi mỉm cười và tập trung vào việc di chuyển lên cao và xuyên qua Newton. Tôi nhìn sang bên phải của tôi tại Trạm Cứu Hỏa và chào nó bằng một nắm đấm và hấp thụ nhịp điệu của âm nhạc vang lên ầm ầm. Những người hâm mộ và cổ vũ dường như bùng nổ ngoài sức tưởng tượng khi tôi bắt kịp một runner nữ trên đỉnh đồi số một.

Vòng chạy trên đất sét dài 10 dặm ở Florida Orange Groves đã trở thành một trò chơi tinh thần mang hình ảnh của Boston trong suốt thời gian tập luyện cuối cùng của tôi. Đối mặt với bốn ngọn đồi lớn ở Florida khiến bốn ngọn đồi của Boston không mang lại nhiều bất ngờ. Tôi đã vượt qua hai runner nữ nữa khi tôi chạy lên đồi số hai và gần như quên rằng tôi đang leo dốc với đám đông gầm lên và tiếp thêm sinh lực trong từng bước chạy. Đồi số ba gần như nối liền với ngọn đồi trước đó. Tôi đã tập trung sự chú ý của mình vào một cặp vận động viên nữ khác để bắt kịp họ trước khi chén ngọn đồi tiếp theo. Đồi Heartbreak là đồi số bốn, gần dặm 20. Phần 3 của kế hoạch race của tôi: dặm 20 kết thúc, thời gian để nhảy múa …

Tôi ngả lòng vào đồi Heartbreak và chạy theo cadence của bài hát từng lặp đi lặp lại trong tâm trí của tôi qua từng buổi tập luyện căng thẳng cũng như các buổi chạy dài. Đột nhiên tôi nhận ra nó không chỉ lặp đi lặp lại trong đầu tôi, nó đã vang lên từ loa ở nửa đường lên đồi Heartbreak.

“I got this feeling inside my bones,

It goes electric, wavy when I turn it on …”

Một thoáng nổi gai ốc, nụ cười mà tôi bắt đầu ở dặm 8 giờ đây như nới rộng hơn, trái tim tôi đập nhanh giữa buồng phổi và nước mắt tôi tuôn ra. Tôi vung nắm đấm ‘cảm ơn’ lớn nhất vào đường đua. Tôi muốn cho công ty đồi Heartbreak một cái vẫy tay và nắm đấm tràn đầy niềm vui, sau khi họ hỗ trợ nhóm chúng tôi trong chuyến thăm Boston vào tháng Ba. Những ngọn đồi Newton tung ra một thách thức cuối cùng qua Boston College và cuối cùng là leo dốc đáng kể trên đồi Chestnut. Tôi nhích dần lên về hướng đồng đội Dot và nói “Chiến thôi. Đây là nơi chúng ta phải chén đẹp!” Và vượt qua mốc 22 dặm trước khi xuống dốc cuối cùng về phía Cleveland Circle. Tôi thấy đám đông vây kín khi tôi chạy đường cong chữ “S” và cảm thấy tiếng la hét điếc tai. Đoạn rẽ cuối cùng phía tay trái là tại Dunkin Donuts, tiến vào đại lộ Commonwealth và tôi biết 3 dặm tiếp theo là một đường chạy thẳng đến bảng hiệu Citgo.

Tôi di chuyển dọc theo đại lộ Commonwealth và nhận thấy cảnh sát và nhân viên an ninh mỗi người dàn ra mỗi 25-50 mét bên trong các chướng ngại vật, bên phải của tôi. Không cần suy nghĩ, tôi chỉ vào một cảnh sát để cho anh ta sẵn sàng trước khi tôi ném cho anh ta một cái high-five và phá lên cười khi những người hâm mộ la hét điên cuồng. Tôi bước vào vùng lân cận Brookline ở dặm 24 và kiểm tra đồng hồ của tôi lần cuối, biết rằng các địa danh mang tính biểu tượng ở phía trước trong đường đua này chính xác hơn bất kỳ đồng hồ GPS nào. Tôi nhanh chóng tính toán rằng tôi có thể phá vỡ thời gian 2:36 và một lần nữa cảm thấy gió thổi sau lưng cho tôi thêm lực đẩy để tiếp tục chiến đấu. Có một chút leo dốc đến mốc 40k nơi tôi lấy chai nước cuối cùng và tung nhanh một nắm đấm để tỏ lòng biết ơn sau khi tự tin chộp lấy chai nước của mình. Dấu hiệu Citgo xuất hiện ở dặm 23 đã gần và tôi băng qua khoảng vuông nhựa đường sơn có ghi “25.2 ONE MILE TO GO!”.

Adrenaline của tôi tăng lên theo từng bước. Một runner nữ khác đã đi trước và đã tiến gần hơn trong thời gian dài của Đại lộ Commonwealth. Tôi không hề suy nghĩ về vị trí của mình trong nhóm nữ ưu tú. Kế hoạch race của tôi đã không tập trung vào vị trí nhưng nhấn mạnh đến cuộc đua từ dặm 17 đến khi kết thúc, bắt kịp càng nhiều runner nữ càng tốt. Tôi đánh tay với nữ cảnh sát cuối cùng trước khi chạy thẳng lên cầu vượt sơn màu xanh da trời và màu vàng với hàng chữ BOSTON STRONG… chỉ hơn một nửa dặm nữa thôi.

Tôi thực hiện cú rẽ phải cuối cùng lên con đường Hereford không thể nghe thấy tiếng chân của mình nện lên trên vỉa hè hoặc tiếng thở của mình vì chúng đã bị lấn át bởi những tiếng thét điếc tai, tiếng chuông cầm tay reo leng keng và tiếng vỗ tay của đám đông xếp hàng ngắn nhưng mạnh mẽ. Tôi cảm thấy một lực đối kháng trên ngực và vai của mình khi trên con đường ngắn này tự nhiên có một cơn gió xuất hiện và tạt thẳng vào mặt và tôi tựa vào nó như một thách thức cuối cùng trước đoạn cuối cuộc đua. Tôi đưa một nắm đấm nữa để cảm ơn những người hâm mộ Hereford Street khi tôi rẽ vào Boylston Street.

Tôi có thể thấy một runner nữ phía trước càng lúc càng gần hơn. Tôi có bốn bloc đường cho một nỗ lực để đua với một đối thủ cạnh tranh cuối cùng. Tôi cảm thấy ngực mình dâng cao và ngả mình về phía trước. Mặt và má tôi cảm thấy tê dại vì phải cười suốt 2 tiếng rưỡi. Tôi giữ cadence theo giai điệu của mình và thấy khoảnh khắc này giống như tôi đã hình dung trong nhiều lần tập luyện…

“I can’t stop the feeling,

So just dance, dance, dance …”

Tôi tung đầu gối như thể đang tung đòn một lần cuối nhưng tôi nhận ra rằng tôi không thể cảm nhận được chân mình … Tôi đang chạy trong niềm vui thuần khiết và cảm thấy nụ cười của tôi rung động với cảm xúc. Đám đông ở hai bên tôi đang hét to đến mức tôi đã bị thuyết phục và nghĩ rằng người chiến thắng nam đã đến từ phía sau, nhanh chóng. Tôi liếc nhanh qua vai trái để chuyển sang phía bắc của con đường – khi nhóm nữ ưu tú được hướng dẫn về vạch đích, nhưng không thấy người chiến thắng nam hay runner nữ trong tầm mắt.

Tôi tập trung vào runner nữ trước mặt tôi, sau này tôi biết cô ấy là người Mỹ thứ ba (thứ 11 toàn giải) đã hoàn thành, tôi cần 3-4 bloc đường để bắt kịp cô ấy trước vạch đích. Mặc dù quan tâm đến việc ganh đua và muốn bắt kịp một đối thủ cạnh tranh nữa, niềm vui của những bloc đường cuối cùng trên Phố Boylston (trớ trêu thay) làm tôi không muốn vội vàng, và tôi không muốn nó kết thúc. Đồng hồ trên vạch đích đã trở nên rõ ràng và tôi có thể thấy 2:34:45 … 46 … 47 … và hai ý nghĩ đổ xô vào đầu tôi: Bố tôi đã dạy tôi như một cầu thủ bóng rổ trẻ tuổi rằng tôi có thể chạy suốt chiều dài sân bóng rổ và vẫn tung được một shot trong vòng chưa đầy 5 giây … và vạch kết thúc là gần hơn 84 feet. Tôi biết tôi có thể phá vỡ 02:35:00 và phá vỡ nó trong khi vẫn hấp thụ mọi cảm xúc của những bước chạy đặc biệt mà Boston Marathon đã cho tôi trong suốt 26,2 dặm. Bốn bloc cuối cùng trên Boylston là chung kết của cuộc đua, bài hát cuối cùng của chương trình khiến tôi muốn cảm nhận nhiều hơn, nhưng tràn đầy trong tôi là niềm vui và lòng biết ơn vì cơ hội ở “dưới ánh đèn”.

Tôi được hộ tống đến lều BAA để lấy thiết bị và đi đến khách sạn. Tôi ôm lấy Justin với những giọt nước mắt và một cảm giác khẳng định, mặc dù anh ta và tôi đều biết rằng sự dời chuyển của chúng tôi đến Michigan không có gì ngoài chạy bộ hoặc chạy đua. Tôi đoàn tụ với mẹ và anh trai của tôi với những cái ôm và chụp hình kỷ niệm. Thông qua gia đình tôi đã học được giá trị của các mối quan hệ và tác động của hệ thống hỗ trợ đóng vai trò quan trọng trong tâm trí và trái tim của tôi, trong thể thao cũng như trong cuộc sống. Tôi tiếp tục cảm thấy rất biết ơn vì niềm tin liên tục của họ về những gì tôi đặt ra để thực hiện.

Câu chuyện về cuộc thi Marathon Boston đầu tiên của tôi và các bước để bắt đầu để lại cho tôi những bài học sau: tin vào những gì bạn làm, tin tưởng Thượng Đế và sự hướng dẫn của Ngài để sống với mục đích của bạn, biết ơn mọi cơ hội có được và không bao giờ đánh giá thấp tác động lòng tốt với mọi người bạn gặp. Marathon vào thứ hai là một cuộc đua mà tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi đã nghe kể vô số lần cách chạy Boston Marathon đặc biệt và độc đáo, nhưng tôi không nghĩ rằng bất cứ ai có thể thực sự hiểu cảm giác đó cho đến khi chính họ trải nghiệm nó. Từ đám đông la hét liên tục dọc theo toàn bộ 26,2 dặm, đến sự phấn khích và tiếng ồn của cộng đồng Boston, nó là một sự kiện thành phố thực sự quan tâm đến và muốn chứng minh cho mọi người tham gia chạy. Tôi đã thực hiện kế hoạch race như tôi đề ra, nhưng cuối cùng nó không bao giờ là cuộc đua để lên kế hoạch hoặc chạy. Đó không phải là tôi, không phải đôi chân hay đôi giày của tôi đã tạo ra cuộc đua đó, nhưng có điều gì đó xa hơn và một người nào đó lớn hơn tôi nhiều. Tôi hấp thụ hình ảnh, âm thanh và mùi vị. Mười dặm cuối cùng của Boston Marathon đã cho tôi từng cảm xúc tuyệt vời và tôi không thể ngưng mỉm cười. Một cánh cửa mở ra cho tôi vào thứ Hai tuần trước. Việc chuẩn bị của tôi ở Michigan kết hợp với niềm tin của tôi trong việc luyện tập và tin tưởng vào mục đích của tôi, tất cả kết hợp và đạt đến tột đỉnh để giúp tôi có được cuộc đua mạnh nhất trong cuộc đời mình.

Tôi đã đón nhận từng lời chúc khỏe mạnh và chúc may mắn từ bạn bè và gia đình ở Iowa, Michigan, và trên khắp đất nước vào trong tim. Tôi mang theo những thông điệp đó và cá nhân đó với tôi trên từng bước của cuộc đua. Thành tích của tôi vào Thứ Hai tuần trước có thể gây bất ngờ cho nhiều người, nhưng tôi biết đó đơn giản là dấu hiệu cho thấy tôi được bao quanh bởi sự hỗ trợ và niềm tin trong hành trình của mình và tiếp tục tin tưởng con đường phía trước. Trong khi chạy là một cuộc đua đến đích, cuộc sống thì không. Tôi tiếp tục học lại điều này và phát triển theo nhiều cách thông qua thể thao và hy vọng rằng các runner đồng nghiệp cũng nhận ra điều này. Cảm ơn tất cả mọi người ở Iowa và trên khắp đất nước đã theo dõi vào thứ Hai và những người tiếp tục ủng hộ tôi ngoài việc chạy.

Danna Herrick

BÌNH LUẬN

Hãy nhập bình luận của bạn
Điền tên của bạn